1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

1.1. Một vài nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chọn lọc hay nhất

– Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 – một nhà thơ xứ Huế và có những đóng góp quan trọng đối với dòng thơ ca hiện đại Việt Nam.

– Ông học tập và trưởng thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham gia chiến đấu chống Mĩ.

– Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và chính trị ở Huế. Ông được bầu làm Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin.

– Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương.

1.2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm

– Là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm mang đến một tiếng thơ sôi nổi, đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ.

– Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn, suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận với cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của đất nước, dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà văn về văn học nghệ thuật.

– Tác phẩm chính: “Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974), “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986)

2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Đất Nước”

“Mặt đường khát vọng” là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các vùng đô thị, vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

Đoạn trích “Đất Nước” thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Với cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, lối thơ trữ tình chính luận, tác giả đã thể hiện hình ảnh đất nước tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam.

3. Phân tích chi tiết

3.1. Đất Nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian (42 câu thơ đầu)

9 câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của Đất Nước/ Đất Nước có từ bao giờ? 

Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi cảm xúc cho biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất  Nước lại được định nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào sảng, trang trọng, mang dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường Kiệt:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”

Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” cũng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước bằng các yếu tố văn hóa, văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự hiện diện của các triều đại lịch sử và những anh hùng hào kiệt:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Hay đó là một đất nước tráng lệ, huy hoàng với tầm vóc lớn lao, kì vĩ trong thơ Nguyễn Đình Thi:

“Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Và với nhà thơ Thanh Hải, đất nước lại lung linh, kỳ ảo:

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước mình bình dị và thân quen, gần gũi đến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến một cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc động về Đất Nước trong quan hệ với cuộc sống của nhân dân dưới góc độ văn hóa dân gian. “Đất Nước không phải là những gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần của con người. “

Tác giả mở đầu bài thơ bằng giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm tình như đưa ta trở về với cội nguồn của Đất Nước:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Ngay từ câu thơ đầu tiên, ta đã ấn tượng và đặt ra câu hỏi về hai chữ “Đất Nước”, tại sao hai chữ ấy lại được viết hoa? Người ta thường viết hoa tên riêng và trước giờ các nhà thơ đều không viết hoa từ đất nước như Nguyễn Khoa Điềm. Phải chăng nhà thơ xem đất nước như một sinh thể, như một tên riêng, thể hiện sự trân trọng, yêu kính và ngợi ca Tổ quốc mình. Quả đúng là như vậy! Khi ta xét đến việc Đất Nước có từ khi ta lớn lên, từ “ta” như để nói nhân vật trữ tình là thi nhân, mà cũng như để nói đến chúng ta, một cộng đồng, một dân tộc với bao thế hệ. “Ta” không rõ là ai, trạng ngữ phiếm định “khi ta lớn lên” chỉ rõ Đất Nước đã có từ trước đó, tự bao giờ, từ ngàn đời, sừng sững và hiên ngang, trước khi mỗi chúng ta ra đời và lớn lên. Vì thế Đất Nước xứng đáng được tôn kính như một sinh thể, ta dành một tấm lòng nghiêng mình trước non sông.

Sự bình dị không chỉ hiện lên qua nguồn cội của Đất Nước, mà còn phảng phất ở lời thơ như thủ thỉ, chiêm nghiệm, tâm tình. Đất Nước chính là không gian nuôi sống, nuôi dưỡng ta từ thuở ấu thơ đến khi trở về cát bụi. Đất Nước như cái nôi chung của dân tộc, ru hồn ta mãi xanh tươi.

Tiếp nối câu thơ đầu tiên, câu thơ thứ hai lý giải về cội nguồn của Đất Nước:

“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”

Thuở ấu thơ, ai không từng nghe những truyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa” của bà, lời ru âu ơ, ngọt ngào, sâu lắng của mẹ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” mà Nguyễn Khoa Điềm sử dụng thật tinh tế và giàu tình cảm bởi cụm từ ấy đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi người con đất Việt, nó dẫn lối về những miền xưa cũ thân thuộc, nó gợi cho ta niềm thương nỗi nhớ về một trời tuổi thơ xanh ngắt, về chiếc nôi êm với bầu sữa mẹ ngọt lành. Đất Nước hiện hình trong những câu chuyện cổ, gắn liền với hình ảnh của cô Tâm dịu hiền, chàng Thạch Sanh dũng cảm, vớ Thánh Gióng oai phong lẫm liệt,… 

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần.”

                                 (“Truyện cổ nước mình” – Lâm Thị Vỹ Dạ)

Hình ảnh Đất Nước thật đẹp gắn với vẻ đẹp của con người Việt Nam cần cù, lam lũ, dũng cảm, kiên cường và giàu tình yêu thương. Chính không gian văn hóa ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ con người Việt Nam. 

Rồi “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Hình ảnh “miếng trầu” tuy nhỏ bé nhưng lại dung chứa cả “cuộc đời” của một Đất Nước, chứa đựng biết bao tình cảm bình dị mà thân thương. Câu thơ đã gợi nhớ về câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau” từ đời Hùng Vương, ca ngợi tình nghĩa sâu nặng của anh em, vợ chồng, để rồi từ đó hình thành những phong tục, tập quán trong giao tiếp “miếng trầu là đầu câu chuyện” hay trong hôn nhân “miếng trầu nên dâu nhà người”, tạo nên nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Lịch sử 4000 năm của Đất Nước bắt đầu từ những câu chuyện dung dị mà thấm sâu ấy. Và miếng trầu đã trở thành biểu tượng cho tình yêu, vật chứng cho đôi lứa và cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt.

Thật độc đáo và khác lạ, Đất Nước lại đi về những miền cổ tích xa, đi cùng hình ảnh mẹ, hình ảnh bà mà chẳng phải những con số, những triều đại hào hùng. Từ buổi hồng hoang của lịch sử, Đất Nước hình thành, trở thành không gian địa lý che chở con người, rồi con người biết yêu quý Đất Nước, tạo nên những văn hóa, phong tục đẹp đẽ, gắn kết giữa Đất Nước và con người mãi bao năm.

Sau ba câu thơ đầu về sự ra đời của Đất Nước, câu thơ thứ tư sẽ đưa ta về những ngày tháng Đất Nước bắt đầu “lớn lên”, như một con người, quá trình phát triển của Đất Nước cũng có vô số sự kiện và những giai đoạn đặc biệt:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Câu chuyện Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh đuổi giặc Ân đã len lỏi vào trang thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã vận dụng thành công chất liệu của nền văn học dân gian, khai thác hình ảnh Thánh Gióng trong truyền thuyết “Thánh Gióng”, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Vẻ đẹp của Thánh Gióng như song hành cùng vẻ đẹp của cây tre Việt Nam.

“Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.”

Hình ảnh cây tre đã trở nên quen thuộc ở mỗi làng quê, là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của con người Việt thật thà, chất phác nhưng kiên cường, anh dũng, bất khuất, cho tinh thần đoàn kết, cho sức mạnh quật khởi và tinh thần yêu nước của dân tộc ta bao đời nay.

Cụm từ “dân mình” nghe sao thân thương quá đỗi! Hình ảnh “lớn lên” tựa như sự vươn mình của dân tộc, từ những ngày đói khổ, năm tháng đau thương đến những ngày vươn dậy hào hùng, mang sức mạnh quật khởi, kiên cường; qua những giai đoạn đấu tranh, rồi dựng xây, giữ gìn, phát triển Đất Nước. “Đất Nước” lớn lên cũng vì thế. Câu thơ cũng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc tuyệt vời, song song với cổ tích và truyền thuyết đã đi vào các trang sách, vào ký ức của mỗi người dân Việt Nam, qua đó, tác giả cũng khéo léo nhắc nhở về truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta. Trong bài thơ “Quang vinh Tổ quốc chúng ta”, Tố Hữu cũng từng có những dòng ngợi ca:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.

Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt

Chí căm thù rèn thép làm roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại ngòi

Tổ quốc ta quyết không mất nữa!

Phố làng đây, nhà cửa ta đây

Dù tan nát, cháy thành than lửa,

Máu hi sinh phải rửa thù này!”

Hình ảnh Đất Nước được hiện diện ngay trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi gia đình gắn với những tập tục, thói quen và lối sống tình nghĩa, cần cù chịu khó. 

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên với thói quen bới tóc sau đầu, một vẻ đẹp giản dị, dịu dàng, đằm thắm và chịu thương, chịu khó, tần tảo trong lao động. Hình ảnh đó cũng trở thành nét đặc trưng văn hóa, tục búi tóc sau đầu đưa ta nhớ về một nền văn hóa đậm đà, một thuở cơ cực vất vả của người phụ nữ Việt Nam.

Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi đạo lí nghĩa tình thủy chung của đôi lứa. Dù trải qua bao sóng gió, cha mẹ vẫn thương nhau “gừng cay muối mặn”, không bao giờ thay đổi. Vì lẽ đó, muối – gừng trở thành biểu tượng cho tình nghĩa gắn bó, thủy chung của vợ chồng.

“Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.”

hay 

“Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn

Sáu ngàn ngày cũng xa.”

Đạo nghĩa vợ chồng ngàn năm chẳng rời. Một ngày nên duyên, cả đời ân tình không sao kể xiết. Tình và nghĩa luôn đi cùng nhau, vợ chồng không chỉ có tình mà còn có nghĩa, gắn bó và thương nhau trọn đời, như muôn lần muối vẫn mặn và gừng thì vẫn cay. Đây chính là truyền thống tốt đẹp của đất nước mình tự bao đời.

Trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã sử dụng các từ xưng hô quen thuộc trong đời sống mỗi người Việt, từ “mẹ”, “bà”, rồi “cha mẹ” – ta như được ở trong một sợi dây máu thịt gắn bó bởi truyền thống, đều là “con Rồng cháu Tiên” cùng đoàn kết, thủy chung, yêu thương nhau thành một truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. 

Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình cảm thiêng liêng ấy mà còn ở những tập tục, hình ảnh quen thuộc gần gũi:

“Cái kèo cái cột thành tên”

Câu thơ khiến ta nhớ về những gian nhà tranh vách lá, cái kèo, cái cột dựng lên, nghe tiếng kêu”kẽo kẹt” từ đâu vọng về. “Cái kèo, cái cột” còn chỉ sự hình và phát triển của ngôn ngữ dân tộc, tiếng nói mà ta đã đánh đổi xương máu để giữ gìn. Những thân cây, khúc gỗ, những cái cột cái kèo như có tên tuổi cùng Đất Nước. Bên cạnh đó câu thơ còn nhắc đến một tập tục rất độc đáo, đó là đặt tên xấu để dễ nuôi, chóng lớn. Từ tên của những vật dụng hàng ngày trở thành tên của những đứa trẻ, gửi gắm bao yêu thương, ước vọng về những mầm non của Đất Nước. 

Và rồi, Đất Nước tiếp tục “lớn lên” với hình ảnh “hạt gạo” – thức ngọc trời đã nuôi sống biết bao thế hệ:

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.”

Hình ảnh hạt gạo “một nắng hai sương” với bốn công đoạn “xay, giã, giần, sàng” cũng là hiện thân của quê hương. Thành ngữ “một nắng hai sương đã thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó cùng bao vất vả gian nan trong đời sống nông nghiệp. Hạt gạo được làm ra từ bao mồ hôi, nước mắt, bao nhọc nhằn lo toan với quá trình sản xuất tỉ mì xay, giã, giần, sàng. Vẻ đẹp của hạt gạo trắng trong là kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động, kết tinh cho vẻ đẹp của Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước từ ngàn đời nay. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành trường ca “Mặt đường khát vọng” năm 28 tuổi, nhưng những lời thơ vẫn rất sâu sắc và thiết tha khi nhắc về cội nguồn dân tộc. Ý thơ ở đây khiến ta nhớ đến bài ca dao quen thuộc:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

 Và, sau tất cả những hình ảnh vọng về đẹp đẽ, “Đất Nước có từ ngày đó…” là lời khẳng định chân thành và chắc chắn. “Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc.” Những vẻ đẹp vẹn nguyên của một dân tộc, một Đất Nước anh hùng. Cụm từ “ngày đó” là một ngày rất xa xôi, nhưng Đất Nước thì luôn thật gần gũi với đời sống mỗi chúng ta. Ngày xưa ấy, Đất Nước sinh ra và lớn lên, bên cạnh con người, chở che rồi nuôi nấng, qua bao không gian, hình thành văn hóa phong tục qua bao thời gian. Dấu ba chấm cuối câu nối dài những truyền thống văn hóa văn hiến, phong tục tập quán, thể hiện sự bất tận, sự trường tồn vĩnh hằng từ xa xưa với Đất Nước. Chín câu thơ mở đầu khiến người ta lắng lại với cội nguồn, nghĩ về nước mình với những ân tình đậm đà. 

“Nguyễn Khoa Điềm không xác định niên đại theo cách của các nhà sử học, khảo cổ học để khẳng định sự ra đời của đất nước mà cắt nghĩa sự ra đời của Đất Nước trong chiều sâu của lý lẽ – trái tim nhiều yêu thương ngọt ngào, đằm thắm. Viết về Đất Nước mà lời của tác giả như là tiếng của người yêu thủ thỉ tâm tình. Đất Nước hiện lên dung dị, gần gũi, đời thường, khơi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc với những nét rất đặc thù, thiêng liêng và rất đỗi tự hào.”

33 câu thơ tiếp theo: Định nghĩa về Đất Nước

– Đất nước là gì?

“Một cuộc thám hiểm thật sự không cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới.” (Proust) Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, mỗi người nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một lối đi riêng để ghi dấu trong lòng độc giả và khắc tên mình vào dòng chảy thời gian. Người thi sĩ không thể bước đi trên lối mòn của người khác mà phải “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Chính vì vậy, cùng với chủ đề đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã có những định nghĩa thật mới lạ. Tách riêng 2 yếu tố Đất – Nước ra khá đặc biệt, bằng phép chiết tự, nhà thơ trình bày định nghĩa của mình theo một cách mới mẻ, độc đáo vô cùng. 

Đất Nước được hợp thành bởi 3 yếu tố

+ Chiều rộng không gian địa lý, hình thành nên văn hóa Việt

Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều rộng mênh mông của không gian địa lý. Với suy luận của tuổi trẻ, nhà thơ đã chia cắt Đất Nước thành 2 thành tố Đất và Nước để suy ngẫm và chiêm nghiệm cho sâu sắc. Mở đầu đoạn thơ này là định nghĩa về “Đất” thật khác biệt:

“Đất là nơi anh đến trường”

“Đất” là con đường đưa anh đến trường, mở ra một không gian cụ thể của Đất Nước. Những ngôi trường học thân quen là nơi gắn bó với mỗi con người, nơi ta cảm nhận được bao tình thương mến của thầy cô, bạn bè, cung cấp cho ta chân trời tri thức rộng mở để chắp cánh cho bao ước mơ, khát vọng bay cao, bay xa. 

Khái niệm về “Nước” còn gây nhiều bất ngờ hơn:

“Nước là nơi em tắm”

Hình ảnh “giếng nước gốc đa” đâu đó hiện lên, gợi người đọc liên tưởng đến quê hương, đến làng xóm, những ngõ quanh co rợp mát bóng tre làng, và cả giếng nước ở đầu làng. “Nước” là nơi em tắm, hình ảnh bình dị thân thuộc của làng quê gợi lên những con sông quê hương bên lở bên bồi, mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng châu thổ làm nên một vùng văn hóa xứ sở. Đó còn là dòng sông đã tắm mát tuổi thơ, để con người được đẫm mình trong không gian trong trẻo, yên bình của thiên nhiên. Và kỷ niệm của một thời thơ ấu cứ thế lặng lẽ theo ta cho đến hết cuộc đời.

Hình ảnh “Đất” và “Nước” song hành với nhau, như anh và em gắn bó, và Đất Nước không chỉ là không gian sinh hoạt hàng ngày nuôi dưỡng tâm hồn, thể chất mà còn là nơi in dấu bao kỉ niệm của tình yêu đôi lứa.

“Đất Nước là nơi ta hẹn hò”

Bằng lăng kính của tình yêu đôi lứa nở rộ và rực rỡ nhất, Đất Nước trở thành không gian riêng tư của anh và em, là nơi ta hẹn hò với bao bồn chồn, bâng khuâng, xao xuyến. Đó là nơi anh nắm tay em nói những lời yêu thương trong bao vụng về, e ngại, khởi đầu cho một tình yêu đầu đẹp đẽ. Tác giả đã cho thấy đây chính là biểu tượng cho sự thống nhất, hòa quyện giữa các yếu tố “Đất” và “Nước”, của anh và em, hợp thành một chỉnh thể, không thể thiếu một trong hai, gợi lên một chiều sâu suy tưởng: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại… gắn bó bền chặt không thể tách rời.

Với con mắt của tuổi trẻ, Đất Nước là cõi mộng với những kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu,

“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

“Đất Nước là nơi” – cụm từ này được điệp lại như một sự nhắc nhở và khẳng định, rằng từng chút một trong sự lớn lên của tình yêu đôi lứa đều quyện hòa vào trong Đất Nước. Là nơi dung chứa tình yêu của anh, của em, của đôi mình, là nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, nơi để em chia sẻ những nỗi niềm, suy tư, trăn trở thầm kín của tình yêu. Hình ảnh chiếc khăn đã trở thành một biểu tượng của tình yêu, chuyên chở tâm trạng của người con gái khi yêu.

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.”

Hay hình ảnh chiếc khăn còn đi vào thơ Phan Thị Thanh Nhàn thật tinh tế:

“Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay

Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,

Bên ấy có người ngày mai ra trận.”

(Hương thầm)

Ở câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ về sự đan cài giữa tinh yêu cá nhân với tình yêu đất nước, tuy hai mà một. Bởi chính những chàng trai, cô gái trẻ sẽ góp công xây dựng đất nước, cống hiến cho dân tộc, và sự kết hợp của họ, tình yêu của họ sẽ thổi bùng sức sống của đất nước, tô đẹp non sông gấm vóc Việt Nam và làm phong phú cuộc sống mỗi người.

Bằng việc sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, các hình ảnh đặc trưng của quê hương, thôn xóm, bản làng nước Việt, nhà thơ của “Đất Nước” đã gợi ra cho độc giả những cách hiểu mới, cách cảm nhận mới về đất nước mình đang sống. Các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, phép chiết tự đã được vận dụng tinh tế, đem lại sự lý giải vừa như tâm tình, vừa rất hợp lý và thuyết phục.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Đất Nước còn là những vẻ đẹp từ thiên nhiên, từ những hình ảnh đặc trưng trong câu ca dao:

“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi.”

Lên núi rồi xuống biển, một lần nữa khái niệm Đất Nước lại được phân tách và lý giải sống động. Hình ảnh chim phượng hoàng và cá ngư ông là một hình ảnh nổi bật trong ca dao xưa:

“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc

Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi

Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời

Kẻo mai kia con cá về sông vịnh

Con chim nọ đổi dời về non xanh.”

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục khơi sâu chất liệu của văn học dân gian, lấy ý tưởng từ những câu hò Bình – Trị – Thiên vẽ nên một bức tranh Đất Nước giàu đẹp với núi sông hùng vĩ, bát ngát biển khơi. “Đất lành chim đậu” là những hình ảnh đa dạng, phong phú của chim, của cá tượng trưng cho sự thịnh vượng và trù phú của nước Việt. Quan hệ đoàn tụ của chim và cá gắn liền với sự hài hòa giữa Đất và Nước. Nhà thơ đã kể tên những tài nguyên của Đất Nước trong cảm hứng hào sảng, tự hào để thức tỉnh mỗi chúng ta ý thức bảo vệ và giữ gìn những vẻ đẹo huy hoàng, tươi đẹp vốn có của quê hương.

“Dường như không gian Đất Nước còn là không gian tinh thần, là nơi trở về của những tâm hồn yêu quê hương.” Cũng như con chim phượng hoàng bay về núi, con cá ngư ông về với biển khơi, mỗi con người cũng luôn hướng về cội nguồn Đất Nước. “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Đất Nước trở thành nơi thiêng liêng gắn bó máu thịt với mỗi chúng ta như “chim có tổ, người có tông”. 

Và trên hết, không gian Đất Nước là “nơi dân mình đoàn tụ”, là không gian sinh tồn của cả cộng đồng:

“Không gian mênh mông

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”

“Không gian mênh mông” của Đất Nước rộng lớn với núi sông bờ cõi, với Bắc – Trung – Nam một dải nối liền, là con đường anh đến trường, là dòng sông em tắm, là giếng nước, ao làng, là rừng vàng biển bạc bao la. Không gian ấy trở thành ngôi nhà chung của đại gia đình Việt Nam qua bao thế hệ, là cội nguồn, quê hương tinh thần của mỗi con người. Trải qua sự dai dẳng của thời gian ‘đằng đẵng”, qua bao sóng gió, dân mình được đoàn tụ, quây quần. Đó là sự hội ngộ sau những ngày tháng gian khổ, hay cũng chính là sự trở về với Tổ tiên, tất cả đều được đoàn tụ trong chiều rộng không gian và chiều dài thời gian của Đất Nước. 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một dải đất hình chữ S, cùng sẻ chia Đất Nước và góp phần gìn giữ, xây dựng và phát triển Đất Nước không ngừng. Đất Nước không nhỏ bé riêng tư mà là nơi sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc. Từ “dân mình” thật gần gũi, thân thiết, như thể tất cả chúng ta đều cùng chung một gia đình, đều là ruột thịt. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật có sức gợi làm nao lòng người. 

+ Đất Nước ở bình diện lịch sử

Không chỉ tự hào về không gian địa lý của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi ra chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử. “Thời gian đằng đẵng” là thời gian vô thủy, vô chung, là quá trình phát triển lâu dài từ trong quá khứ, tới hiện tại và tương lai. Đó là thời gian từ “ngày xửa ngàu xưa” trong cõi xa xăm, xa mờ, Đất Nước đã hiện hữu.

“Từ có vũ trụ

Đã có giang san”

Đất Nước có từ thuở hồng hoang gắn với những câu chuyện sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, từ “Sự tích trăm trứng” hay truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh”. Bờ cõi được mở mang, Đất Nước có từ ngày đó, rồi Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên… cứ thế hình thành và phát triển qua lịch sử 4000 năm văn hiến. 

Đất Nước hiện ra với một chiều dài “đằng đẵng” xuyên suốt từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Quá khứ của Đất Nước gắn với “những ai đã khuất”, với những con người đã sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự sống của Đất Nước. Họ có thể là những người anh hùng kiệt xuất như Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi,… Nhưng cũng có thể là những con người bình dị, vô danh, là đại đa số nông dân nghèo khổ “đã đứng lên thành những anh hùng”. Tất cả họ đều đã hiến dâng cuộc đời mình để hóa thân vào hình hài Đất Nước, viết nên trang sử hào hùng của dân tộc.

Điệp từ “những ai” là tiếng gọi chung cho tất cả con dân nước Việt, dù là ông cha ta đã nằm xuống, hay những con người của hiện tại, chúng ta yêu nhau, cùng “sinh con đẻ cái”, duy trì nòi giống “con Rồng cháu Tiên”. Đó là sứ mệnh, là trách nhiệm “gánh vác phần người đi trước để lại”, tiếp tục sống, giữ gìn dân tộc mình, đất nước mình, tiếp tục bảo vệ nền độc lập mà ông cha đã dùng máu xương của mình để dựng xây là gìn giữ. Không chỉ thế, ta còn tiếp tục phát triển non sông bằng sức trẻ và trí tuệ được trau dồi không ngừng. Rồi thì, khi chúng ta già đi, ta lại tiếp nối vòng tuần hoàn ấy, “dặn dò con cháu chuyện mai sau”, câu chuyện của Tổ quốc mình.

Cứ như vậy, thế hệ này đến thế hệ kia, đời này sang đời khác cùng “dặn dò con cháu chuyện mai sau”, cùng lưu giữ những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm, tình cảm nhân ái, thủy chung. Có thể nói, lịch sử bốn nghìn năm của Đất Nước được hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức vĩ đại, lớn lao, vĩnh hằng của các thế hệ con người Việt Nam. Điều đó đã tạo ra sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai giữa thế hệ này với thế hệ khác.

+ Đất Nước ở chiều sâu văn hóa

Đất Nước trở nên vẹn toàn, đẹp đẽ, và thiêng liêng hơn trong chiều sâu văn hóa, thống nhất ở cội nguồn và truyền thống văn hóa của dân tộc:

“Đất là nơi chim về

Nước là nơi rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Nếu như Nguyễn Trãi phát hiện ra Đất Nước qua các triều đại lịch sử “Triệu, Đinh, Lý, Trần” thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta trở về với cái thuở sơ khai gắn với truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên. Đất Nước bắt đầu từ thuở khai thiên lập địa – nhà thơ cảm nhận và lý giải Đất và Nước theo chiều dài vô tận của thời gian, chiều sâu của quá khứ lịch sử và phảng phất chất huyền thoại qua những câu chuyện vọng về. Hình ảnh “chim về”, “Rồng ở” đưa ta về nguồn gốc của người con đất Việt, từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, năm mươi con xuống biển, năm mươi con lên non, trở thành 54 dân tộc anh em của chúng ta bây giờ. Dù là miền ngược, miền xuôi, dù là Bắc, Trung, Nam, tất cả đều có chung tiếng gọi “đồng bào” thiêng liêng, đều là con Lạc cháu Hồng, anh em một nhà. Chúng ta dù trẻ hay già, gái hay trai đều chung sức, chung lòng hướng về tổ tiên, nhớ ơn nguồn cội, mang trong tim niềm tự hào dân tộc sâu sắc.

Không chỉ tự hào về cội nguồn văn hóa của Đất Nước, nhà thơ còn hướng tới những truyền thống văn hóa tốt đẹp từ ngàn đời nay.

“Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Trong dân gian đã từng có câu ca nhắc về mỗi người:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3″

hay 

“Dù ai buôn bán gần xa

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3″

Tiếp nối mạch nguồn văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã khơi gợi trong mỗi chúng ta ý thức về nguồn gốc, dòng giống tổ tiên, từ đó biết ơn những thế hệ đi trước đã làm nên giang sơn đất nước. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng, để hướng về lịch sử các vua Hùng đã có công dựng nước. “Cúi đầu” để tri ân, để tâm nguyện với lòng mình phải giữ lấy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Người Việt dù đi đâu về đâu trên mọi nẻo đường, ở quê hương hay nơi xứ người nhưng đều một lòng hướng về quê cha đất tổ như một ngôi nhà chung để họ cùng trở về trong cái nôi văn hóa đầy yêu thương, gắn bó.

Với lời thơ tự do, đằm thắm ngọt ngào như lời trò chuyện, tâm tình giữa anh và em, với kiến thức phong phú và khả năng sáng tạo những yếu tố của văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã nêu ra định nghĩa đa dạng về Đất Nước từ chiều rộng không gian, chiều dài lịch sử cho đến chiều sâu văn hóa với một cái nhìn thật mới mẻ, sâu sắc.

Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và nét chung, trộn lẫn dung hòa; Đất Nước chính là “máu xương của mình”, mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước

Đất Nước không chỉ hiện lên ở không gian địa lý, ở chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa mà Đất Nước còn có trong mỗi người, hiện thân trong mỗi con người.

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước”

Đất Nước có trong những hình ảnh bình dị, đời thường của cuộc sống hàng ngày từ miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, cây tre ven đường hay những con đường đến trường, nơi ta từng hẹn hò. Và hơn thế, Đất Nước còn hóa thân trong hình hài của mỗi con người, có trong máu thịt, trái tim, hơi thở, sự sống của mỗi cá nhân. Cuộc sống của mỗi người không chỉ là của riêng mà là thuộc về Đất Nước, đã và đang thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa, vật chất tinh thần của Đất Nước. Đất Nước cho chúng ta hình hài, cách sống, cách nghĩ, và cũng chính là những truyền thống văn hóa, đạo lý từ ngàn đời nay đã làm nên cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn bao thế hệ con người Việt Nam.

Câu thơ vang lên như một niềm vui sướng, tự hào khi tác giả nhận thức ra rằng dù anh và em chỉ là một phần nhỏ của Đất Nước nhưng xiết bao yêu thương, gắn bó khi ta trở thành những côn dân, một phần tử không thể thiếu trong cộng đồng Đất Nước. 

Bên cạnh sự nhận thức và khẳng định Đất Nước hóa thân, kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ còn cho thấy Đất Nước là sự gắn bó hòa quyện sâu sắc giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tinh yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc. 

“Khi hai đứa cầm tay nhau

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”

Đất Nước là nơi ta từng họ hẹn, là nơi em “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Và giờ đây, Đất Nước là nơi “hai đứa cầm tay”. Cầm tay để trao gửi yêu thương, thề nguyện đính ước, để trao duyên mặn nồng. Và khi đó “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Tình yêu lứa đôi trở thành bệ phóng vun đắp cho tình yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước. Hạnh phúc của mỗi cá nhân được tạo nên bởi niềm hạnh phúc chung của Đất Nước.

“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.”

Nếu “khi hai đứa cầm tay” biểu thị mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với cá nhân, giữa anh và em thì “khi hai đứa cầm tay mọi người” lại khẳng định mối quan hệ đoàn kết, yêu thương giữa cá nhân với cộng đồng để làm nên hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Từ “hài hòa nồng thắm” đến “vẹn tròn to lớn” là cả một bước phát triển đi lên của lịch sử dân tộc, là quá trình tiếp nhận những giá trị bền vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm của mấy nghìn năm Đất Nước để rồi tạo ra mối thân tình đoàn kết của đồng bào, đồng chí. Và cũng từ đó, những lời dạy tha thiết và nghiêm khắc của cha ông vẫn luôn là bài học về đạo lí làm người, về tình yêu thương đùm bọc gắn bó.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Những câu thơ tiếp theo đã thể hiện niềm tin vào tương lai của Đất Nước với một viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng.”

Các từ ngữ “mai này”, “lớn lên”, “đi xa” trong tháng ngày mơ mộng đã cho thấy cái nhìn tích cực về một tương lai tốt đẹp, một hành trình chinh phục ước mơ thật đẹp đẽ. Lời nhắn nhủ chân thành, thấm thía của tác giả đã hướng đến thế hệ mai sau, những người sẽ “gánh vác phần người đi trước để lại”, xây dựng Đất Nước giàu đẹp văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ từng căn dặn. Hai chữ “lớn lên” đã đặt kì vọng, niềm tin vào trí tuệ, bản lĩnh của nhân dân. Và họ sẽ là người “mang Đất Nước đi xa” đến với chân trời tươi sáng, đến với “những tháng ngày mơ mộng”. Từ một Đất Nước nghèo khí hôm qua trở thành một Đất Nước huy hoàng, rực rỡ, thực hiện được những điều mà ngày hôm qua chỉ là khao khát, hi vọng.

Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là cảm xúc trào dâng khi nhà thơ thấm thía sâu sắc ý thức trách nhiệm của cá nhân với Đất Nước:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”

Lời thơ thủ thỉ tâm tình “em ơi em” như một tiếng gọi yêu thương , san sẻ với bao niềm vui sướng khi ta nhận ra “Đất Nước là máu xương của mình”. Vì lẽ đó mà ta phải biết “gắn bó và san sẻ”, “phải biết hóa thân” cho dáng hình xứ sở. Hai từ “phải biết” nhấn mạnh ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi con người để làm nên “Đất Nước muôn đời”. Đó cũng chính là mệnh lệnh phát ra từ trái tim mỗi con người Việt Nam yêu nước để rồi nó trở thành lời hiệu triệu mạnh mẽ mà tha thiết ngân vang. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương, những con người Việt Nam sẵn sàng đấu tranh và “hóa thân” cho núi sông, cho Đất Nước mãi mãi trường tồn. Ý thơ đã cho thấy đây là tiếng thơ “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ”. Có như vậy, ta mới có thể bảo vệ và giữ gìn “Đất Nước muôn đời”.

“Ôi tổ quốc khi cần ta chết

Cho mỗi căn nhà ngọn núi, con sông”

Mượn hình thức tâm tình, thủ thỉ của đôi trai gái yêu nhau, nhà thơ đã gửi gắm, nhắn nhủ đến thế hệ mai sau trách nhiệm với Đất Nước. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng thể hiện niềm tự hào sâu sắc và tình yêu đối với Đất Nước, Đất Nước của “những người chưa bao giờ khuất” bởi “lòng dân ta yêu nước thương nhà”.

3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân – Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước

Nhân dân làm ra không gian địa lý của Đất Nước

Đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ta đến với một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường, Đất Nước của nhân dân. Tìm cho mình một lối đi riêng, nhà thơ đã có những phát hiện thật sâu sắc về địa lý, lịch sử, văn hóa của Đất Nước gắn với vai trò kiến tạo của nhân dân. Đoạn thơ là câu trả lời mang tính thẩm mĩ cho câu hỏi: ai đã làm nên hình sông thế núi, làm ra hình hài Đất Nước? Từ đó đi đến khẳng định: nhân dân chính là người làm ra không gian địa lý của Đất Nước. 

“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối ống ông cha”

Đầu tiên, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân – những người đã cống hiến từ điều nhỏ bé nhất cho Đất Nước. Tác giả đã nêu ra những di tích văn hóa như Đền Hùng, Hòn Vọng Phu, các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long, thắng cảnh như núi Bút, non Nghiên,… hoặc đơn giản chỉ là ruộng đồng, gò bãi, ao đầm trải dài khắp lãnh thổ từ Bắc vào Nam như phác thảo một tấm bản đồ văn hóa của Đất Nước.

Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như những kiệt tác của tạo hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên thì Nguyễn Khoa Điềm lại gắn liền nó với đời sống của nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. “Chính nhân dân là những người đã hóa thân vào từng hình sông, dáng núi để làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất Nước, làm nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm tích văn hóa của mỗi địa danh. Từng mảnh đất dòng sông, ngọn núi đều gắn liền với tính cách, tâm hồn con người Việt Nam.”

Bao thế hệ con người Việt nam đã đóng góp cho danh lam thắng cảnh của đất nước một sự hóa thân, một ý nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả tâm hồn dân tộc. Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá, hòn Trống Mái cũng là câu chuyện gắn bó nghĩa tình vợ chồng nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau bởi sự thủy chung son sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. “Những người vợ nhớ chồng” còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng đã in sâu vào nguồn cội nước non, từ thuở sơ khai đến khi đất nước chiến tranh, người vợ vẫn sắt son một dạ đợi chồng. Tất cả họ đã “góp cho Đất Nước” không chỉ là hòn Vọng Phu hay hòn Trống Mái nữa, danh lam thắng cảnh ấy không đơn thuần là hai hòn đá chụm vào nhau nữa mà là một câu chuyện đời làm nên hình hài ấy.

Vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt còn là tình yêu nước nồng nàn, nó đã góp phần làm nên những di tích lịch sử, những mảnh đất thiêng liêng mà oanh liệt. Gót ngựa của Thánh Gióng đã để lại cho Đất Nước trăm ao đầm ở vùng Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên cường, bất khuất của người dân Việt Nam, mãi đi vào cõi bất tử, đẹp đẽ ngời sáng. Hay hình ảnh chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ để “góp mình” dựng đất tổ Hùng Vương là minh chứng cho lòng dân cùng đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất.

Bên cạnh Sông Hồng “đỏ nặng phù sa” hay sông Mã “bờm ngựa phi thác trắng”, Đất Nước còn có Cửu Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại đẫm màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao đời nay để cho Nam Bộ một “dòng sông xanh thắm”, dòng sông chín rồng (Cửu Long) mềm mại chuyển mình qua những bờ bãi, xóm làng mang phù sa tỏa khắp muôn nơi.

Và nếu không có những người học trò nghèo thì Đất Nước mình cũng sẽ có núi Bút, non Nghiên gợi lên hình ảnh Đất Nước nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Ngay cả con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên nhiên thế giới, góp phần đưa vẻ đẹp Đất Nước đến bốn biển năm châu. Rồi những tên đất tên làng cũng được tạo nên từ tên của những người bình dị  như ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.

Đoạn thơ liên tiếp lặp lại những cụm từ “góp cho Đất Nước”, “góp nên”, “góp mình”, “góp dòng sông”, “góp cho Hạ Long”,… Và chủ thể của những đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, những cặp yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân,… Tất cả điều vô danh đó chính là nhân dân qua bao năm tháng đã lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.

“Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào

Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ”

(Chế Lan Viên – “Chim lượn trăm vòng”)

Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là sự khái quát sâu sắc được rút ra từ sự liệt kê các hiện tượng cụ thể ở trên theo cấu trúc quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một chân lý trong đời sống mang tính triết luận hiển nhiên, sâu sắc.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

Những câu thơ trên có sự hòa quyện giữa chất trữ tình đằm thắm, thiết tha và chất chính luận trí tuệ sắc sảo. Điều đó đã mang lại cái nhìn mới mẻ, độc đáo về những không gian địa lý của Đất Nước, đồng thời đánh thức tình yêu quê hương Tổ quốc, lòng biết ơn với những thế hệ đi trước đã xây dựng núi sông, bờ cõi.

Ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam đều phảng phất “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình ảnh núi sông, rừng biển, những tên bản, tên làng cũng chính là điệu hồn, là phong cách, là ước mơ, hoài bão của cha ông qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian lịch sử đằng đẵng vô thủy vô chung thì cụm từ “đi đâu ta cũng thấy” lại là hình ảnh của một Đất Nước mênh mông, rộng lớn với rừng vàng, biển bạc. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, trong cái mênh mông rộng lớn của không gian là “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Từ “hóa” không chỉ là sự đóng góp lớn lao bởi mồ hôi xương máu của Nhân Dân mà còn là sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh thầm lặng đã làm nên non sông đất nước. Mỗi ngọn núi, dòng sông hay gò bãi, ruộng đồng đều có một phần máu thịt tâm huyết của người xưa. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi bàn tay cần cù, gửi gắm linh hồn mình vào núi sông để truyền lại cho thế hệ mai sau. Bởi vậy mỗi danh lam thắng cảnh, mỗi di tích văn hóa trên đất Việt đều là bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Ca ngợi núi sông diễm lệ cũng là ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.

Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện ở bình diện không gian, nó được tạo nên bởi những vẻ đẹp tâm hồn, và những tình nghĩa ấy đã làm nên gương mặt của Đất Nước thật đẹp đẽ và ngời sáng, tạo nên núi sông hùng vĩ, giang sơn gấm vóc tươi đẹp muôn đời. 

Đóng góp của nhân dân trên bình diện lịch sử

Bên cạnh những phát hiện mới mẻ, độc đáo về sự đóng góp của nhân dân trong việc làm ra không gian địa lý của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn hướng vào dòng chảy xa xăm, sâu thẳm của lịch sử để suy tư, chiêm nghiệm về công sức của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước”

Đoạn thơ mở ra với tiếng gọi tha thiết “em ơi em” như tiếng hát thâm tình, như lời thủ thỉ trò chuyện với “em”. “Em” có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng của tác giả, cũng có thể là thế hệ trẻ, những người sẽ kế tục sự nghiệp của cha ông hay chính là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Nhà thơ đã đưa ta về “nhìn rất xa vào bốn nghìn năm Đất Nước”, một đất nước với lịch sử lâu dài, với truyền thống vẻ vang được tạo nên bởi sức mạnh, sự vĩ đại của nhân dân.

Nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức được người làm nên Đất Nước không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh, bình dị:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”

Với những từ ngữ “người người”, “lớp lớp”, “con gái”, “con trai”, “có biết bao người”, “người người” đã gợi lên ấn tượng về sự đông đảo của nhân dân. Hết lớp này đến lớp khác, bao thế hệ con người Việt Nam đã kế tiếp nhau viết nên những trang sử hào hùng của Đất Nước. 

Ngược dòng chảy thời gian, chúng ta đã trở về với những người con gái, con trai bằng tuổi chúng ta bây giờ. Khi hòa bình, họ cần cù lao động, chịu thương chịu khó, sống giản dị đầy yêu thương. Khi giặc đến, người con trai ra trận dũng cảm đấu tranh và trở thành anh hùng, còn người con gái ở nhà “nuôi cái cùng con”, trở thành hậu phương vững chắc. Họ cùng đồng lòng chung sức để đánh giặc cứu nước, và “ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để Đất Nước mãi tự hào với bao tên tuổi của những nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai,…

Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có những người con gái, cũng không có một triều đại lịch sử, không có cả tên một người anh hùng dù “những anh hùng cả anh và em hôm nay đều nhớ”. Có lẽ tên tuổi của họ tổ quốc ghi công, sử sách lưu truyền:

“Những người đã trở thành anh hùng

Những anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Còn những con trai, con gái trong “bốn nghìn năm giống ta lứa tuổi” thì không ai nhớ mặt đặt tên. Họ lặng lẽ hi sinh mồ hôi, xương máu, hiến dâng tuổi thanh xuân, hạnh phúc của mình để “làm nên Đất Nước”. Họ thầm lặng và lớn lao, vĩ đại. Và Đất Nước anh hùng được làm nên bởi những con người bình thường, mộc mạc mà cao cả:

“Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hồn”

                                                                                                                     (Nguyễn Đình Thi)

Từ sự hi sinh lặng lẽ và âm thầm của nhân dân, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi và khẳng định công sức của những con người đã hóa thân vào Đất Nước:

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Cấu trúc sóng đôi giữa “sống” và “chết”, giữa “giản dị” và “bình tâm” đã gợi lên sự thanh thản, nhẹ nhàng trong sự ra đi của bao thế hệ con người Việt Nam. Họ sống “giản dị”, chân chất, thật thà và “chết” cũng thật “bình tâm”, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình để “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Họ hi sinh không phải để đời sau tưởng nhớ, được vinh danh, cũng không phải để ngợi ca mà bởi tiếng gọi của non sông đất nước “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Lịch sử 4000 năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của những con người cao cả ấy. 

“Họ” có thể là những người nông dân lam lũ trên đồng ruộng quen với “việc cuốc, việc cấy, việc cày”, làm ra hạt gạo phải “một nắng hai sương xay giã giần sàng” nhưng khi giặc đến họ “không đợi ai đòi ai bắt”, “sống đánh giặc chết cũng đánh giặc”. “Họ” có thể là những người con trai đã bỏ lại sau lưng mình gia đình, quê hương và những người thân yêu để “ra đi đầu không ngoảnh lại” và có thể sẽ không bao giờ quay trở về. Bao nhiêu con người, không ai nhớ mặt, cũng không ai để lại tên tuổi. Trên những nấm mồ vô danh là những dòng chữ đầy xót xa “Tổ quốc khắc tên anh”. Nhưng chính những con người ấy đã viết nên truyền thống vẻ vang trong lịch sử của Đất Nước.

Đoạn thơ đã mang đến cho người đọc một nhận thức rất đơn giản mà thấm thía. Mỗi con người Việt Nam dù nhỏ bé đều đã góp sức mình để xây dựng Đất Nước làm nên lịch sử dân tộc. Ta không chỉ cảm nhân được tình yêu nước sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm mà dường như tình cảm ấy còn lay động, thức tỉnh bao thế hệ trẻ, khơi dậy ở họ niềm tự hào về quê hương, đất nước. Cũng chính vì vậy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thật sự “giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin ở bản thân mình và làm nảy nở khát vọng hướng tới chân lý” (M. Gorki).

Nhân dân góp phần làm nên giá trị văn hóa, vật chất tinh thần

Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian địa lý, xây dựng nên giang sơn, gấm vóc, làm nên lịch sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền thống vẻ vang, lưu giữ và truyền lại những giá trị vật chất tinh thần. Mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống đều do nhân dân tạo ra và giữ truyền:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi

Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói

Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân”

Từ “họ” được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân với Đất Nước. Bên cạnh đó là cặp từ “giữ – truyền” được nhắc lại như khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước “gánh vác phần người đi trước để lại”, “dặn dò con cháu chuyện mai sau” để đưa “Đất Nước đến những tháng ngày mơ mộng.”

Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng để Việt Nam bốn nghìn năm gắn liền với hình ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được làm ra từ “một nắng hai sương” như là tinh hoa của đất trời, kết tinh mồ hôi, công sức của người nông dân trên đồng. Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tần tảo của người nông dân lao động, biểu tượng cho một cuộc sống thanh bình, ấm no.

Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn truyền “lửa qua mỗi nhà”  từ hòn than qua con cúi. Ngọn lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm của ánh sáng và khát vọng, của một cuộc sống thịnh vượng, sum vầy. Thuở xa xưa hình ảnh những người Việt chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối đèn đã gợi lên biết bao yêu thương. Từ những bếp lửa “ấp iu nồng đượm” trong gia đình, ngọn lửa đã bước vào cuộc chiến tranh máu lửa “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia” để “Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng yêu nước, ý chí kiên cường đánh giặc ngoại xâm.

Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn ngữ, giọng điệu. Và nhân dân đã “truyền lại giọng điệu cho con mình tập nói”, giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt như giữ lấy linh hồn của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao biến đổi của thời cuộc nhưng giọng điệu và tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay đổi. Điều đó đã khẳng định ý thức và tinh thần dân tộc của nhân dân khi họ nhận ra một chân lí hiển nhiên, còn tiếng nói Đất Nước quê hương là giữ lại được bản sắc văn hóa của một dân tộc.

Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh, những tên xã tên làng như lưu giữ lại những kí ức của lịch sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên xã tên làng thân quen để đặt tên cho những vùng đất mới mà họ đi qua, những cái tên nặng trĩu tình yêu thương và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về những truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu thương. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho con cháu đời sau an cư lạc nghiệp, “đắp đập be bờ cho đời sau trồng cây hái trái”. Những thế hệ đi trước đã vất vả làm lụng, kiên nhẫn bền bỉ để người đời sau có những thành quả ngọt ngào.

Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa ấy qua bao thế hệ

“Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao độ của nhân dân. Chính họ đã xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng là bảo vệ những giá trị vật chất và tinh thần quý giá của dân tộc.

Nhân dân làm nên chiều sâu tư tưởng

Nhân dân đã làm tất cả không quản gian lao, vì một lý tưởng:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Bốn từ “Đất Nước” được lặp lại, nhấn mạnh “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, của những bài ca dao thần thoại, của nền văn hóa đã đi sâu vào huyết quản và trái tim. Để rồi Đất Nước ấy đã dạy cho mỗi con người yêu quê hương, yêu tổ quốc:

“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu

Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Đất Nước là cái nôi ấp ủ, dạy chúng ta tình yêu thương gia đình từ tấm bé, dạy ta biết quý công sức mình. Đất Nước còn dạy ta biết kiên trì, phấn đấu cho mục tiêu phía trước, nuôi dưỡng ý chí để ngày mai thành công. “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu”, từ nguồn cội nào đưa câu hát về với Đất Nước? “Người đến khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác” như ông lái đò trên sông Đà của Nguyễn Tuân, như đoàn thuyền đánh cá trong thơ Huy Cận,… Tất cả họ đều gợi lên rõ ràng hình ảnh người lao động góp từng phần nhỏ tạo ra một Đất Nước kì vĩ, tạo nên “trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Bởi vậy, nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước!

4. Tổng kết 

4.1. Nội dung 

Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, từ địa lý, lịch sử, văn hóa của đất nước. Đồng thời tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ với nước nhà.

Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất Nước là sự hội tụ, kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn, với bao công sức và cả khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhà thơ khẳng định nhân dân chính là người làm nên Đất Nước.

4.2. Nghệ thuật

– Thể thơ tự do phóng khoáng vừa độc đáo vừa tự nhiên, giúp mạch cảm xúc được thể hiện một cách trôi chảy nhất.

– Vận dụng chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục, tập quán, ca dao, thần thoại, cổ tích,…Không lặp lại hoàn toàn mà chỉ chọn một vài từ để đưa người đọc về với văn hóa dân gian.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước và nhân dân.

5. Chất trữ tình – chính luận trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm

5.1. Chất chính luận

Chất chính luận được thể hiện ở tư tưởng của tác giả

– Thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam, dứt khoát lựa chọn đứng về phía nhân dân và Cách mạng.

– Trong kết cấu: trường ca được xây dựng theo cách lập luận để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Đất Nước là gì? Ai là người làm nên Đất Nước

5.2. Chất trữ tình

– Những câu thơ không chỉ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ thể mà còn thấm sâu vào trong cái nhìn, trong thái độ trân trọng, yêu quý với mỗi hình ảnh, chi tiết về Đất Nước gắn liền với nhân dân.

– Suy tưởng cũng là một ưu thế, suy tưởng là suy nghĩ, phát hiện không chỉ nói lên bằng những lời khô khan mà qua hình ảnh thơ và cảm xúc của chủ thể trữ tình.

6. Một vài nhận định về “Đất Nước”

– Ta bắt gặp một “Chiều Matxcova” thanh bình và tươi đẹp, một “Dòng Danube xanh” êm đềm và dạt dào sóng, một Surriento trong “Trở về Surriento” lãng mạn đẹp đến nao lòng: “Biển hiền hòa lớp sóng đẹp bao la. Đời ta như rộn vang ngàn câu ca. Ôi đất nước xanh tươi như mộng đời. Lưu luyến trong tâm hồn bao người…” Chính tình yêu quê hương bằng những cái rất riêng là khởi nguồn của tình yêu tổ quốc. Nói như một nhà văn Nga: “Con suối đổ vào sông, con sông đổ vào đại trường giang Volga, lòng yêu quê hương bắt đầu lòng yêu tổ quốc”. Và trong từng trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước cũng bắt nguồn từ những gì thân thuộc, bình dị nhất.

– “Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của bản thân.” 

– “Nói về những điều lớn lao một cách nhỏ nhẹ, nói về đất nước một cách dịu dàng, ngay cả những cuộc hò hẹn lứa đôi trong thơ ông, những ngày chiến tranh ấy cũng mang tầm vóc của dân tộc”.

– “Trường ca “Mặt đường khát vọng” hội tụ không chỉ độ chín của tư tưởng, nhận thức mà còn thể hiện một phong cách thơ có chât giọng riêng.”

Hy vọng bài viết đã cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn!